Tiểu sử và sự nghiệp nhà thơ Hàn Mặc Tử

Tiểu sử và sự nghiệp của nhà thơ Hàn Mặc Tử

Giới thiệu tiểu sử của nhà thơ Hàn Mặc Tử, tại đây bạn cũng sẽ tìm thấy tài liệu tiểu sử sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Hàn Mặc Tử là cái tên được nhắc đến rất nhiều trong làng thơ Việt Nam, ông được bạn đọc ngưỡng mộ về tài năng và đồng cảm với số mệnh của mình. Tuy là một người nghệ sĩ tài hoa nhưng ông lại có một tuổi đời khá ngắn ngủi vì mang trong mình căn bệnh nan y. Chính vì lẽ ấy mà ông đã gửi gắm những cảm xúc của mình vào hồn thơ. Để giúp mọi người có cái nhìn chân thực và sâu sắc hơn về nhà thơ Hàn Mặc Tử, mình xin giới thiệu đến các bạn bài đọc ngày hôm nay.

Tiểu sử và sự nghiệp nhà thơ Hàn Mặc Tử

Tiểu sử và sự nghiệp nhà thơ Hàn Mặc Tử

1. Tiểu sử Hàn Mặc Tử

Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo họ mẹ. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con:

  1. Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn
  2. Nguyễn Thị Như Lễ
  3. Nguyễn Thị Như Nghĩa
  4. Nguyễn Trọng Trí
  5. Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13 tháng 2 năm 1959).
  6. Nguyễn Bá Hiếu
  7. Nguyễn Văn Hiền
  8. Nguyễn Văn Thảo

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình khi ông Nguyễn Văn Toản đang làm Chủ sự Sở Thương Chánh Nhật Lệ – Đồng Hới; lớn lên, Hàn Mặc Tử theo cha đi nhiều nơi và theo học ở các trường Tiểu học Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921–1923), Sa Kỳ (1924)… đến năm 1926, cụ thân sinh của Hàn Mặc Tử bị bệnh và mất ở Huế, Hàn Mặc Tử được mẹ cho học tiếp ở trường Pellevin – Huế. Năm 1930, Hàn Mặc Tử mới thôi học theo mẹ vào Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Gia đình ông theo đạo Công giáo, ông được rửa tội tại Nhà thờ Tam Hòa với tên thánh là Phê Rô Phanxicô.

Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do cha ông là Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926).

Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền.

Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.

Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập “Gái quê”, rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại “phong ngứa” gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 – 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc “găng” tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.

Xem thêm:  Tiểu sử và sự nghiệp nhà thơ Nguyễn Trãi

Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile – Giám đốc Bệnh viện Quy Nhơn. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng(Phan Thiết), qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hánen gây nên.

Thời đó, vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bệnh nhân thường bị hắt hủi, cách ly, xa lánh, thậm chí bị ngược đãi. Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị là phản khoa học vì lẽ ra phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử qua đời do nội tạng hư hỏng quá nhanh vì uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.

Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại đây vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.

Cuộc đời Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông – có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.

2. Sự nghiệp thơ văn của Hàn Mặc Tử

Năm 16 tuổi, ông bắt đầu sáng tác thơ với bút danh là Phong Trần và Lệ Thanh. Đến năm 1936, ông đổi bút danh thành Hàn Mặc Tử. Bút danh ấy có nghĩa là “Chàng trai đứng sau bức rèm trống trải, lạnh lẽo”.

Năm 1936, ông cho ra đời tập thơ “Gái quê”. Trước đó một năm, ông đã có dấu hiệu của bệnh phong nhưng ông lại cho rằng đó chỉ là một bệnh phong ngứa thông thường.

Sau tác phẩm “Thức khuya”, ông được nhận học bổng sang Pháp học nhưng ông lại từ chối và quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp.

Trong cuộc đời thơ ca của mình, đã có rất nhiều bóng hồng lọt vào hồn thơ của ông. Ông đơn phương một mối tình với Hoàng Cúc- một người con gái xứ Huế. Ông đã viết nhiều bài thơ về cô gái này như: Vịnh Hoa cúc, Trồng hoa Cúc…

Năm 1940, một nữ sinh đã làm lòng ông xao xuyến và cuối cùng đã cho ra đời được tác phẩm “Cẩm Châu Duyên”, “Quần Tiên Hội”.

Khoảng thời gian năm 1938-1939, Hàn Mặc Tử đau đớn với căn bệnh phong không thể chữa khỏi lúc bấy giờ. Đôi bàn tay của ông ngày càng khô cứng phải dùng thể lực để hoạt động. Ông phải uống thuốc của thầy lang để chữa bệnh nhưng không khỏi.

Ông qua đời ngày 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương.

Người đời biết rằng ông đã sống một cuộc đời đau đớn về thể xác nhưng có ai nghe thấy được tiếng rên rỉ của ông. Chúng ta chỉ có thể nghe được nỗi lòng ấy thông qua các vần thơ.

Xem thêm:  Tiểu sử và sự nghiệp nhà thơ Chế Lan Viên

3. Bút danh Hàn Mặc Tử

Nguyễn Trọng Trí làm thơ từ năm 16 tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử. “Hàn Mạc Tử” nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. “Mặt Trăng khuyết” đã được “đặt vào” chữ “Mạc” thành ra chữ “Mặc”. Hàn Mặc Tử có nghĩa là “chàng trai bút nghiên”.

4. Phong cách thơ Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử bắt đầu viết thơ là thể loại Cổ điển Đường luật, sau ông chuyển sang viết thể loại thơ mới lãng mạn. Ẩn sâu trong diện mạo phức tạp và bí ẩn, người ta thấy được tình yêu hướng về trần thế một cách đau đớn của nhà thơ.

Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt nhưng lại luôn quằn quại trong đau đớn, giống như là một cuộc vật lộn giằng xé giữa linh hồn và thể xác. Ông muốn thoát xác để linh hồn mình được bay lên trên bầu trời, nơi mà không còn nổi đau thể xác và đầy hương thơm. Nhưng mâu thuẫn khi ông lại muốn ở lại để ở bên cạnh người mình yêu, muốn được sống trong một tình yêu bằng thân xác phàm trần này.

Thế giới thơ của Hàn Mạc Tử được chia thành hai phần đối nghịch nhau:

  • Ông sử dụng hai hình tượng chính là hồn và trăng để viết ra những vần thơ điên loạn và ma quái.
  • Những bài thơ hồn nhiên, trong trẻo với những hình ảnh trong sáng, tươi đẹp lạ thường.

5. Nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử

Khi đọc thơ của Hàn Mặc Tử, bạn đọc sẽ bắt gặp được một tâm hồn tha thiết yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên và yêu con người một cách khát khao, cháy bỏng. Khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong tập thơ của mình, đã có khá nhiều bài thơ ông viết mang khuynh hướng siêu thoát vào một thế giới khác, nhưng đó là một hình chiếu ngược cho niềm khát khao được sống của ông.

Thơ của ông được phóng xuất từ những trải nghiệm đau thương bằng cả tâm hồn lẫn thể xác, bằng cả điên lẫn tỉnh, bằng cả mơ hồ lẫn thực tại.

Dù vậy, càng về cuối đời thơ của ông càng thanh thoát, an nhiên. Giọng thơ không còn đau đơn và sự gào thét trong tâm can nữa. Ông chấp nhận trút hết những khổ đau nơi trần thế, để rồi đi về với cõi vình hằng. Biểu tượng ‘trăng’, ‘hồn’ và ‘máu’ đã trở thành biểu tượng nghệ thuật bất biến, thường trực và xuyên suốt trong thơ Hàn Mặc Tử.

Thơ của Hàn Mặc Tử có ngôn ngữ thuần Việt được sử dụng một cách sáng tạo, được nâng lên một trình độ rất cao nên rất mới nhưng cũng rất Việt Nam. Mỗi bài thơ ông viết đều mang cấu trúc chặt chẽ, vận động hết sức trôi chảy và rất mãnh liệt.

6. Tác phẩm tiêu biểu của Hàn Mặc Tử

Trong cuộc đời ngắn của mình, Hàn Mạc Tử đã để lại một khối lượng tác phẩm rất lớn:

  • Âm thầm
  • Bẽn lẽn
  • Duyên muộn
  • Đời phiêu lãng
  • Em lấy chồng
  • Gái quê
  • Hái dâu
  • Lòng quê
  • Mất duyên
  • Một đêm nói chuyện với gái quê
  • Nắng tươi
  • Nhớ chăng
  • Nhớ nhung
  • Nụ cười
  • Quả dưa
  • Sượng sùng
  • Tiếng vang
  • Tình quê
  • Tình thu
  • Tôi không muốn gặp
  • Trái mùa
  • Uống trăng
  • Biển hồn ta
  • Chơi trên trăng
  • Cô gái đồng trinh
  • Cô liêu
  • Hồn là ai
  • Một miệng trăng
  • Ngoài vũ trụ
  • Ngủ với trăng
  • Người ngọc
  • Rướm máu
  • Rượt trăng
  • Sáng láng
  • Say trăng
  • Trăng tự tử
  • Trút linh hồn
  • Trường tương tư
  • Ước ao
  • Vớt hồn
  • Biển hồn ta
  • Chơi trên trăng
  • Cô gái đồng trinh
  • Cô liêu
  • Hồn là ai
  • Một miệng trăng
  • Ngoài vũ trụ
  • Ngủ với trăng
  • Người ngọc
  • Rướm máu
  • Rượt trăng
  • Sáng láng
  • Say trăng
  • Trăng tự tử
  • Trút linh hồn
  • Trường tương tư
  • Ước ao
  • Vớt hồn
  • Bắt chước
  • Cao hứng
  • Chuỗi cười
  • Đà Lạt trăng mờ
  • Đây thôn Vĩ Dạ
  • Ghen
  • Huyền ảo
  • Lưu luyến
  • Mơ hoa
  • Mùa xuân chín
  • Sáng trăng
  • Say nắng
  • Thi sĩ Chàm
  • Thời gian
  • Tối tân hôn
  • Trăng vàng trăng ngọc

Lời kết: Vậy là chúng ta đã biết rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Hàn Mạc Tử, qua đó thể hiện sự cảm thông và ngưỡng mộ đối với một người thi sĩ tài hoa nhưng đoản mệnh.